Ba Gạc Lá Vòng

Cây nhỏ, cao 1 – l,5m. Thân nhẩn có những nốt sần nhỏ, màu lục sau xám. Cành non dẹt, có khía dọc sau tròn, màu xám. Lá mọc vòng 3, đôi khi 4 – 5, khi non có khi mọc đối, phiến lá hình mác, gốc thuôn, đầu nhọn, cuống ngắn, dài 6-11 cm, rộng  1,5- 3cm.

Hoa nhỏ, màu trắng, mọc ở gần ngọn thành xim dạng tán kép, dài 4 – 7 cm; đài hình chuông; tràng hình ống thường hơi cong; nhị 5 dính ở họng tràng; bầu có 2 ô.

Quả hạch đôi, hình trứng, khi chín màu đỏ tươi. Toàn cây có nhựa mủ.

Mùa hoa: tháng 4 – 6; mùa qủa: tháng 7 – 10. Ở đồng bằng, có khi hoa nở quanh năm.

Tránh nhầm với cây ba chạc (Euodia lepta (Spreng.) Merr. – Rutaceae). nhiều nơi gọi là ba chạc tám ghẻ.

TÁC DỤNG DƯỢC LÝ:

Ở Việt Nam dạng nước sắc của ba gạc lá vòng đã được chứng minh có những tác dụng sau đây: Trên chó thí nghiệm với liều 0,5g/kg có tác dụng hạ huyết áp rõ rệt. Trên tim ếch cô lập và tại chỗ có tác dụng làm chậm nhịp tim. Còn có tác dụng an thần gây ngủ.

Theo tài liệu nước ngoài (Trung Quốc) dịch chiết nước, cồn của lá và rễ ba gạc lá vòng với liều 100 – 150mg/kg trên chó gây mê có tác dụng hạ huyết áp, kéo dài khoảng lgiờ. Nước sắc vỏ rễ bằng đường cho thuốc vào dạ dày trên chó gây mê tác dụng hạ huyết xuất hiện sau khi dùng thuốc 30 phút. Phần alcaloid tan trong nước, trên chó và mèo thí nghiệm với liều 1 – 3 mg/kg tiêm tĩnh mạnh có tác dụng hạ huyết áp rõ rệt và kéo dài; trên chó gây cao huyết áp thực nghiệm thuốc cũng có tác dụng hạ huyết áp rõ rệt. Cũng như các loài ba gạc khác, tác dụng hạ huyết áp của các chế phẩm từ ba gạc lá vòng thay đổi tùy theo địa phương cây mọc. LD50 được xác định trên chuột nhắt trắng bằng đường uống của ba gạc lá vòng mọc ờ Trung Quốc là 0,69g/kg (ở Quảng Tây) và 0,82g/kg (ở Hải Nam).

Alcaloid spegatrin chiết từ ba gạc lá vòng có tác dụng ức chế sự phân tiết adrenalin, còn chất verticillatin có tác dung phong bế hạch. Việc sử dụng trên lâm sàng chứng tỏ verticillatin có tác dụng điều trị tốt đối vớt tăng huyết áp lại ít có tác phụ (PROSEA 1999)

PHÂN BỐ, SINH THÁI:

Ba gạc lá vòng là một trong số những loài ba gạc mọc tự nhiên được nhắc đến nhiều ở Việt Nam. Tuy nhiên, kết quả điều tra cùa Viện Dược liệu lừ 1961 đến nay có thể khẳng định đây là một cây thuốc tương đối hiếm ở nước ta. Các điểm phân bố đã được xác định lại thuộc các tỉnh Lạng Sơn (huyện Văn Quan), Nghệ An (Kỳ Sơn), Cao Bằng, Phú Thọ. Trước đây, cây được trồng làm mẫu ở vườn thuốc Trạm Nghiên cứu dược liệu Nam Hà. Hiện còn trống lưu giữ tại Trạm Nghiên cứu cây thuốc Tam Đảo và Sa Pa (Viện Dược liệu).

Ba gạc lá vòng là cây ưa ẩm, ưa sáng và có thế hơi chịu bóng khi còn nhỏ. Trong tự nhiên, cây thường mọc lẫn với một vài cây bụi thấp khác ở bờ mương rẫy, ven đường đi (Văn Quan – Lạng Sơn) hay ở ven rừng thứ sinh gần nguồn nước (Kỳ Sơn – Nghê An). Cây trồng ở Sa Pa, Tam Đảo tỏ ra thích nghi với điều kiện của vùng có khí hâu á nhiệt đới núi cao (nhiệt độ từ 15 dến 18,3°C). Rụng lá mùa đông cây trồng từ hạt sau hai năm cao khoảng 0,8m và bắt đầu có hoa lứa đầu tiên. Càng về sau, hoa quả càng nhiều. Đặc biệt quả chín của năm trước có thể tồn tại đến đầu mùa hoa năm sau. Tỉ lệ nảy mầm của hạt cao nhất khoảng 75%.

Vì trữ lượng ít, ba gạc lá vòng đã được đưa vào “Sách Đỏ Việt Nam ” để bảo vệ.

CÁCH TRỒNG:

Ba gạc lá vòng ưa khí hâu ôn hoà, nhiệt độ trung bình 22 – 23°c, lượng mưa hằng năm vào khoảng 1500 – 2000mm. Cây thích sống trong bóng râm, thường mọc xen kẽ với cây gỗ hoặc cây bụi ở những khoảnh đất tương đối bằng phẳng ở ven làng, hai bên bờ sông, suối hoặc khe núi. Đất thích hợp thường là đất đỏ đá vôi nhiều mùn, có độ pH từ 4,5 đến 6, Đất quá khô cằn, sỏi đá không thích hợp cho việc trồng ba gạc lá vòng. Cây được trồng nhiều ở miền Nam Việt Nam và miền Nam Trung Quốc.

Cây có thể nhân giống bằng hạt hoặc bằng cành.

Nhân giông bằng hạt: Vào tháng 8-9 hàng năm, khi quá chín tập trung, thu và ngâm trong nước 10-12 giờ, sau đó bóp nát và loại bỏ thịt quả rồi thu lấy những hạt chìm. Hạt được xử lý ngâm vào nước nóng 40 – 45°c trong vòng 12 giờ, vớt ra để ráo rồi đem gieo ngay. Hạt phơi khô sẽ nhanh chóng mất sức nảy mầm. Vì vậy, nếu phải chuyên chở đi xa, cần trộn hạt đã xử lý như trên với cát ẩm, đóng vào túi vải hay bao day, dứa .. để vận chuyển.

Đất vườn ươm cần chọn đất cát pha, giữ ẩm tốt, có độ pH 5 – 6.5, cày bừa kỹ, nhạt sạch cỏ dại va lên luống rộng 0,8 – 1 m, cao 17-20 cm. Hạt được gieo thành rạch cách nhau 20cm; cứ 5 – 5.5kg hạt gieo trên 500m vườn ươm, sau đó lấp đất 2 – 3cm, phủ rơm rạ hay cỏ khô và tưới giữ ẩm thường xuyên.

Hạt sau khi gieo 15 – 20 ngày thì bắt đầu nảy mầm. Lúc này cần dỡ ra, tiếp tục tưới giữ ẩm và làm cỏ thường xuyên. Nếu thấy cây con bị vàng lá thì có thể tưới nước phân chuồng pha loãng hoặc đạm sulfal (2%).

Nhân gìống bằng cành: Vào tháng 7 – 8, có thể chọn cành bánh tẻ không bị sâu bệnh chặt thành đoạn dài 17 – 20cm, đầu trên chặt bằng, đầu dưới chặt vát giâm vào vườn ươm (giống như vườn ươm hạt) với khoảng cách 15 x 20cm. Hom giống cần đặt nghiêng 45°, dầu hom nhô lên khỏi mặt đất khoảng 2 – 3cm, sau đó phủ ra để giữ ẩm, tránh đóng váng và hạn chế cỏ dại. Hom giấm nảy mầm sau 7-10 ngày và ra rễ sau 15 – 20 ngày. Không cần phải dỡ ra. Nếu chăm sóc tốt tỷ lệ sống có thể đạt tới 90%. Phương pháp này chỉ nên áp dụng khi thật cần thiết vì không có hiệu quả bằng phương pháp nhân giống bằng hạt.

Thông thường, cây giống được gieo ươm vào tháng 9 và đến tháng 2-3 năm sau thì đánh đi trồng. Ruộng trồng ba gạc lá võng nên chọn đất cát ven sông suối, ánh sáng vừa phải, nhiều mùn, màu mỡ. Sau khi làm đất kỹ, cây con được trồng với khoảng cách tối thiểu 0.5 x0.5m. Mỗi gốc cây bón lót khoảng 1.5-2 kg phân chuồng ủ mục với supe lân (5 – 7 tấn phân chuồng ủ với 100 – 150kg supe lân/ha). Ở Trung Quốc, người ta trồng ba gạc lá võng xen kẽ với chuối, đu đủ . . vừa tăng thêm thu nhập, vùa tạo được bóng râm che cho cây phát triển tốt hơn. Chuối, đu đủ có thể trồng ở khoảng cách 2 x 2.3 m hoặc 2 x 2.7 m. Trồng xen còn giảm được công làm cỏ và chăm sóc. Nếu ba gạc lá võng không bị vàng lá, còi cọc thì không cân bón thúc thêm phân.

Ba gạc lá vòng thỉnh thoảng bị sâu, rệp hai lá, có the phun Basudin 10G, Sherpa 25EC hoặc Rogor 50EC để trừ diệt.

Cây trồng sau hai năm thì được thu hoạch. Vào mùa đông dùng cuốc đào lấy rễ, rửa sạch, phơi khô dùng làm thuốc hoặc bóc lấy vỏ, phơi khô để chế biến.

BỘ PHẬN DÙNG:

Rễ phơi khô hay sấy khô

CÔNG DỤNG:

Ở Việt Nam, ba gac lá vòng được dùng điều trị tăng huyết áp dưới dạng viên, cao lỏng. Cao lỏng của rễ ba gạc lá vòng chứa 1.5% alcaloid toàn phần, liều trung bình mỗi ngày 30 – 60 giọt

Ở Trung Quốc, ba gạc lá vòng cũng được dùng điều trị tăng huyết áp có hiệu quả. Lá tươi giã nát đắp tại chỗ chữa vết thương, rắn cắn.

THÀNH PHẦN HÓA HỌC:

Vỏ rễ ba gạc lá vòng chứa trung bình 0,90 – 2,20% alcaloid toàn phần, trong đó có reserpin, ajmalicin, serpentin.

Lá chứa 0,72 – 1,69% alcaloid toàn phần.

Ba gạc lá vòng còn chứa spegatrin, verticilatin.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Contact Me on Zalo
0911.911.090